Đến với Đà Lạt, du khách không chỉ bị mê hồn bởi những cảnh quan thiên nhiên,
mà còn say sưa trong những huyền thoại tình yêu gắn liền với những cảnh quan ấy.
Người dân Đà Lạt vẫn kể về những huyền thoại, như những thác nước vẫn ngày đêm
chảy và không bao giờ cạn.

Thiên tình sử núi Lang Bian
Ngày 21-6-1893, đoàn thám hiểm người Pháp do bác sĩ Alexandre Yersin dẫn đầu
đến thác Prenn sau đó đặt chân lên cao nguyên Lang Bian và đã tìm ra được "xứ
hoa đào"! Nhưng truyền thuyết về ngọn núi kiêu dũng và thơ mộng này có từ rất
lâu mà người dân bản địa nơi đây vẫn lưu truyền và kể lại trong mỗi mùa xuân về.
Một già làng Cơ Ho ngồi bên đống lửa, vừa uống rượu cần vừa chậm rãi kể. Ngày
xưa, xưa lắm, vùng La Ngư Thượng - tức Đà Lạt bây giờ đất đai màu mỡ, khí hậu
quanh năm mát mẻ. Có nhiều bộ tộc sống ở nơi đây và có hai bộ tộc mạnh nhất là
Lạch và Srê. Tộc Lạch có một tù trưởng đẹp trai, khỏe mạnh với một sức mạnh phi
thường có thể thắng hàng nghìn thú dữ. Thiếu nữ trong làng không ai "bắt" được
chàng về làm chồng vì nghĩ mình không xứng, chàng tên là Lang. Ở bộ tộc Srê có
một người con gái mà nhan sắc của nàng làm núi rừng phải nghiêng ngả, thú dữ
phải bỏ chạy. Vì nhan sắc tuyệt trần đó nên có hai con rắn hồ tinh ghen ghét và
kiên quyết hãm hại nàng. Một hôm nàng vào rừng hái quả thì bị bọn chúng tấn
công. Chàng Lang đi săn, thấy người gặp nạn đến cứu, giết chết bọn yêu quái và
giải thoát cho nàng, nàng tên là Bian. Cũng từ đó chàng Lang và nàng Bian đem
lòng yêu mến nhau cho dù họ khác bộ tộc và cách xa nhau mấy con suối. Họ cùng đi
dạo trên những quả đồi La Ngư Thượng, say sưa ngắm trăng và chàng Lang trao cho
nàng Bian chiếc vòng cầu hôn.
Tin lan truyền và đến tai Bạp (cha) của Bian, ông không chấp nhận mặc dù Bian
đã nài nỉ, khóc lóc, ông kiên quyết rằng: "Trước đây người Lạch và Srê có thù
oán nên con gái Srê không được bắt chồng người Lạch. Giàng (Trời) đã ghi trong
luật tục Bạp không có quyền thay đổi". Bian tuyệt vọng và kiên quyết không bắt
ai làm chồng nữa và thề sẽ trọn đời mang trong mình chiếc vòng cầu hôn của Lang.
Ngày hôm sau, Bian vượt qua nhiều cánh rừng để báo tin cho Lang biết. Họ đau
khổ khôn cùng. Bian khóc, nước mắt nàng tuôn trào hòa vào con thác khiến cho nó
gầm rú ngày đêm như khóc than cho mối tình tuyệt vọng của hai người. Lang và
Bian ngồi yên lặng bên nhau suốt ngày này qua ngày khác mặc cho nắng gió sương
đêm. Thế rồi sau một đêm giông tố họ đã qua đời, các bộ tộc vô cùng thương xót.
Trước xác hai con, hai già làng bắt tay nhau xóa mọi hận thù và tập hợp các bộ
tộc khác thành dân tộc Cơ Ho. Người dân thương cảm hằng năm cứ đắp hai nấm mộ
cao lên. Giàng thương xót phủ hoa lá thành một ngọn núi xinh đẹp: núi Lang Bian
như một thiên tình sử của hai người mãi hiện hình trong tâm tư những người Cơ
Ho.

Hồ Than Thở - những chuyện tình bi tráng
Trai gái hôm nay yêu đương không thành, thường đến hồ Than Thở để giải tỏa
những sầu muộn và như một "tập tục" của những mối tình dở dang thời hiện đại.
Không phải ngẫu nhiên mà họ "thở than". Chuyện kể rằng có hai người yêu nhau từ
thuở học trò, chàng tên là Tâm, nàng tên là Thủy. Tình yêu gắn với nhiều mộng
ước nhưng Tâm phải xa Thủy. Khi nàng nhận được tin Tâm thì đó lại là tin tuyệt
vọng: chàng vui duyên mới. Nàng đau khổ ra đi cùng mối tình trong trắng, mượn hồ
Than Thở kết liễu đời mình. Câu chuyện được học sinh trường Trần Hưng Đạo sưu
tầm vào năm 1970. Sau khi Thủy chết, người đời thương xót đắp cho nàng nấm mộ
bên hồ với hai câu thơ trên bia:
"Mây xanh nước biếc dù thay đổi
Ngàn năm Thủy vẫn ở trong Tâm"
Đến nay, lớp rêu phong thời gian phủ kín bia mộ có ghi câu thơ của mối tình
bi thương này. Nhưng khi thăm hồ nhiều đôi uyên ương vẫn tặng cho người bạc mệnh
những chùm hoa trắng.
Câu chuyện thứ hai mang tính lịch sử bi tráng. Có một nghĩa sĩ Tây Sơn tên là
Hoàng Tùng yêu một người con gái tên Mai Nương. Khi giặc Thanh xâm lược, Hoàng
Tùng ra trận, tin báo về cho Mai Nương là chàng tử trận. Nàng buồn rầu, nhớ lại
buổi chia tay bên hồ và kiên quyết chết theo người tình.
Một tháng sau Hoàng Tùng trở về thì người xưa không còn nữa, chàng nguyện
suốt đời ở vậy cho trọn mối tình chung. Mấy năm sau triều Tây Sơn sụp đổ, Nguyễn
Ánh trả thù một cách đê hèn. Hoàng Tùng đau đớn tình riêng vận nước, tuyệt vọng
đi theo tiếng gọi tình yêu của Mai Nương bên hồ Than Thở. Từ đó mỗi sáng, mỗi
chiều ngàn thông bên hồ lại nổi lên khúc nhạc bi ai than thở cho đôi trai tài
gái sắc vì nước trọn tình yêu nên người đời gọi hồ này là hồ Than Thở.

Thung lũng Tình Yêu và tình yêu hiện đại
Cũng thật là một cái tên đầy lãng mạn dành cho thung lũng này, nhưng cái tên
đó lại không được dệt nên từ những chuyện tình huyễn hoặc cổ tích mà hoàn toàn
"trần thế". Đứng trên đồi thông nhìn xuống, mặt hồ Đa Thiện như một con tim. Xa
xa là đỉnh núi Lang Bian ẩn hiện trong sương mù, mặt hồ phẳng lặng thấp thoáng
những con thuyền nhỏ khiến ta hình dung ra một bức tranh thủy mặc rất gợi tình.
Có cây xanh non, nhiều học sinh, sinh viên thường hay đến cắm trại nên họ gọi
thung lũng này là thung lũng Tình Yêu với ý nghĩa yêu thiên nhiên, đất nước.
Cách lý giải thứ hai, thung lũng gần biệt thự Bảo Đại và là nơi chứng kiến
cuộc tình của hoàng đế cuối cùng này với người mỹ nữ (đồng thời là cô gái của
cảm hứng bài hát "Ai lên xứ hoa Đào") nên thung lũng được gọi là thung lũng Tình
Yêu (Vallée Amour). Sinh viên đại học Đà Lạt thấy đây là nơi hẹn hò lý tưởng của
những lứa đôi nên cũng biến thành nơi thổ lộ tình yêu của mình.
Còn bao nhiêu huyền thoại tình yêu gắn với nhiều danh thắng khác, Đà Lạt mộng
mơ có lẽ là vì vậy. Mùa xuân này nếu có "Ai lên xứ hoa Đào" sẽ được tắm mình
trong nền huyền thoại ấy, nếu ai chưa một lần đến cũng mong hình dung ít nhiều
về xứ lạnh mộng mơ...